Một
vùng H II là một đám mây
khí và
plasma lớn, sáng với mật độ tập trung thấp trong đó đang diễn ra các hoạt động
hình thành sao.
Các ngôi sao khổng lồ xanh, nóng và trẻ trong vùng này phát ra một lượng lớn các
tia cực tím, làm
ion hóa và nung nóng các đám khí bao quanh chúng. Vùng H II-đôi khi có kích thước lớn đến hàng trăm
năm ánh sáng-thường kết hợp với các đám
mây phân tử khổng lồ nơi sẽ hình thành hệ thống ngôi sao, và từ đó các ngôi sao sẽ lại đóng góp vật chất vào vùng này. Vùng H II đầu tiên được khám phá ra là
Tinh vân Lạp Hộ do
Nicolas-Claude Fabri de Peiresc phát hiện vào năm 1610.Do chứa chủ yếu các
nguyên tử hidro bị
ion hóa nên các nhà thiên văn gọi chúng là vùng H II (
vùng H I chứa chủ yếu các nguyên tử hidro trung hòa điện tích và các
phân tử hidro H2). Chúng có hình thái rất khác nhau, do ảnh hưởng bởi sự phân bố các ngôi sao và khí trong vùng là không đồng nhất. Chúng thường hiện ra với hình dạng đám mây và các sợi, thỉnh thoảng lại có hình dạng đặc biệt như
tinh vân Đầu Ngựa. Vùng H II có thể sản sinh ra hàng nghìn ngôi sao trong chu kỳ vài triệu năm. Cuối cùng, các vụ nổ
siêu tân tinh và
gió sao cường độ lớn từ các ngôi sao khổng lồ trong
cụm sao sẽ đẩy khí vào vùng H II tạo nên các đám khí bao quanh cụm sao như ở cụm sao
Tua Rua.Có thể quan sát thấy vùng H II tại những vị trí xa trong
vũ trụ, và nghiên cứu các vùng H II trong các thiên hà là quan trọng cho phép xác định khoảng cách cũng như thành phần hóa học của
thiên hà. Các
thiên hà xoắn ốc và
thiên hà dị thường chứa rất nhiều vùng H II, trong khi các
thiên hà elip hầu như lại thiếu vắng chúng. Trong các thiên hà xoắn ốc, bao gồm
Ngân Hà, các vùng H II tập trung tại các nhánh xoắn ốc, trong khi ở các thiên hà dị thường chúng lại phân bố một cách hỗn độn. Một vài thiên hà chứa những vùng H II khổng lồ, với hàng chục nghìn ngôi sao trong nó. Ví dụ như vùng
30 Doradus trong
Đám mây Magelland lớn và
NGC 604 trong
thiên hà Tam Giác.